6
Năm năm trước, ta và Tạ Toản gặp nhau ở Thanh Châu.
Chỉ khác là, ta và dì Cương bị Đào Triều Châu đày đến nơi đó.
Còn Tạ Toản là một công tử phong lưu, từ kinh thành đi về phương nam, ngao du khắp nơi.
Vì mưu sinh, ta phải dựa vào việc chép lại thi thư để kiếm sống.
Có một lần, khi ta mang bản thảo tới tiệm giao, liền nhìn thấy một người dáng vẻ tuấn tú, mình khoác trường bào nguyệt sắc, tay cầm quyển 《Trân Mộng Tập》 ta vừa chép mấy hôm trước.
Chưởng quầy của tiệm sách cười hì hì trêu ghẹo:
“Vị công tử này, người mà ngài tìm… đến rồi đấy.”
Ta hơi sững người.
Ta vừa ngẩng đầu liền bắt gặp ánh mắt người ấy ôn hòa dịu dàng, khóe môi khẽ mỉm cười.
“Thì ra là do một vị cô nương chấp bút.”
Tạ gia vốn danh môn thế tộc, người như hắn từ dung mạo đến phong thái quả nhiên xuất chúng.
“Chữ viết của cô nương đoan chính, đẹp đẽ, lại mang khí thế hiển hách. Không giống tiểu thư khuê các thông thường, mà tựa hồ mang theo chút hào sảng nơi núi rừng.”
Hắn khẽ phe phẩy cây quạt trong tay, mỉm cười:
“Nếu Tạ mỗ đường đột, mong cô nương thứ lỗi.”
Ta đỏ mặt bừng bừng, nghẹn cả nửa ngày cũng không thốt ra nổi một lời hoàn chỉnh.
Cuối cùng chỉ lắp bắp nói được: “…Đa tạ.”
Hắn khẽ cong mắt, nở nụ cười.
Tạ Toản đã ở lại Thanh Châu suốt một năm.
Suốt năm ấy, hắn thường xuyên lui tới tiệm sách tìm ta.
Cùng ta luận phong nói nguyệt, đánh cược câu chữ, đổ trà chơi chữ.
Hái hoa cài tóc cho ta, tặng liễu làm kỷ vật.
Cùng ta mài mực ngâm thơ.
Hắn tán thưởng nét chữ của ta, tán thưởng văn tài của ta.
Ngoài tán thưởng, còn có cả thương tiếc.
Lần đầu tiên Tạ Toản gọi ta là “Tiểu Ngư Nhi”, giọng mang theo thương xót:
“Vi Ngư, cá nhỏ bơi đi, bốn phương tám hướng đều là tự do. Chờ muội đến mười sáu tuổi, sẽ có được tự do thật sự.”
Ta từng mơ ước biết bao về thứ tự do thật sự ấy.
Nhưng cuối cùng, lại bị giam cầm cả một đời.
Cái tên “Tiểu Ngư Nhi” mà Tạ Toản gọi, chẳng qua là muốn giam giữ ta.
Còn ta, chỉ muốn làm Vi Ngư của chính mình, chứ không phải “Tiểu Ngư Nhi” của hắn.
Ngay khoảnh khắc ấy, ta cúi người hành lễ trước vương phi:
“Vương phi nương nương, bài thơ này đích xác không phải do Vi Ngư sáng tác.
Chỉ là… thần nữ không cố ý lừa người, có lẽ đã nhớ nhầm.”
Đã biết Tạ Toản thiên vị, vậy thì ta cũng chỉ có thể chọn một con đường khác.
7
Tạ Toản luôn cảm thấy, Tiểu Ngư Nhi dường như đã thay đổi rất nhiều.
Ngày trước nàng có thể cùng hắn trò chuyện gió trăng suốt một ngày trời.
Còn nay, lại giống như cố tình giữ khoảng cách, thậm chí chưa nói được mấy câu đã muốn rời đi.
Nhưng hắn còn bận rộn chuẩn bị hôn lễ với Triều Châu, đâu còn tâm trí mà bận tâm đến Tiểu Ngư Nhi?
Buổi yến thưởng hoa hôm nay, cũng là do chính Tạ Toản cầu xin Thọ Vương phi tổ chức.
Thanh Châu nổi tiếng với hoa hải đường, mà Tiểu Ngư Nhi lại yêu hoa hải đường nhất.
Cả đời nàng có ba điều hận, một trong số đó chính là hận hoa hải đường không có hương.
Phủ Thọ Vương là nơi có nhiều giống hải đường nhất, vì thế hắn mới cầu xin một buổi yến thưởng hoa.
Là để tặng cho tri kỷ.
Nhưng hắn không ngờ, chỉ vài lời vô tình từ vị hôn thê chưa cưới của mình, lại khiến Tiểu Ngư Nhi đau lòng.
Triều Châu thuần lương, chắc chắn không phải cố ý.
Vậy nên, hắn mới viết mảnh giấy ấy, mong hòa giải.
Nào ngờ… lại xảy ra chuyện Tiểu Ngư Nhi đạo thơ của Triều Châu.
Phản ứng đầu tiên khi hắn nghe thấy là không thể nào.
Tiểu Ngư Nhi vốn thanh cao, lại mang cốt cách kiêu ngạo, tuyệt đối không thể đạo thơ người khác.
Nhưng hắn chưa từng gặp ai đẹp như Triều Châu.
Thần thái, ánh nhìn, dáng vẻ chỉ một cái liếc mắt, đã đủ khiến người say đắm.
Vì vậy khi hai tỷ muội cùng đứng cạnh nhau, cán cân trong lòng Tạ Toản liền nghiêng về phía Triều Châu.
Tạ Toản trong một khoảnh khắc hồ đồ đã nghĩ:
Có lẽ Tiểu Ngư Nhi chỉ là nhất thời hồ đồ… chỉ cần giúp Triều Châu một lần thôi, một lần là đủ…
Thế nhưng khi hắn nhìn thấy vẻ mặt quật cường mà ẩn nhẫn đau lòng của nàng, bỗng nhiên lại dấy lên một nỗi sợ khó hiểu.
Tựa như có điều gì đó, đang dần rời xa khỏi hắn.
Tạ Toản hoảng loạn. Hắn nghĩ:
Sau khi tàn yến hôm nay, nhất định phải bù đắp cho Tiểu Ngư Nhi.
Nếu nàng nguyện ý làm thiếp của hắn, hắn cũng sẽ đồng ý.
8
Trên gương mặt Đào Triều Châu, nụ cười càng rạng rỡ.
Nàng không ngờ muội muội mình lại ngu xuẩn đến vậy, thế mà lại thừa nhận bài thơ không phải do mình sáng tác.
“Đào Vi Ngư đúng là thủ đoạn đê tiện, đã cướp hôn phu của đích tỷ, còn đạo thơ của tỷ tỷ. Nếu ta là nàng, sớm đã tìm cái chết cho xong!”
“Đúng vậy, chẳng trách gì, là con của một đứa nha hoàn nhóm lửa, đức hạnh cũng chẳng hơn là bao! Quyến rũ người ta thì thôi đi, còn không có chút liêm sỉ!”
“Theo ta thấy, loại nữ nhân thế này đúng là hạ tiện từ trong cốt tủy, còn mơ mộng quyến rũ ai cơ chứ? Thật là buồn cười chết mất!”
Ta chỉ bình thản đứng đó, hướng về phía Thọ Vương phi, cung kính nói:
“Vương phi nương nương minh giám, thần nữ chỉ là nhất thời mắt kém.
Bởi vì… bài thơ ấy có đôi phần tương tự với thi phẩm thần nữ từng viết, nhưng hoàn toàn không giống hệt.”
“Và nữa, nữ tử nên giữ đức hạnh, nhưng nếu sau lưng chỉ biết nói lời thị phi, vậy có khác gì phụ nhân nơi phố chợ?”
Lời vừa dứt, xung quanh lập tức im phăng phắc.
Ta chưa bao giờ cho rằng nữ tử nên bị trói buộc bởi hai chữ hiền thục.
Chính kiếp trước của ta đã chết trong cái danh hiền lương thục đức ấy.
Nhưng điều đó… không có nghĩa là không thể phản kích.
Thọ Vương phi xuất thân tướng môn, nghe vậy thần sắc cũng dịu lại vài phần.
“Nhị tiểu thư Đào gia nói có lý. Vậy không biết bài thơ mà ngươi từng viết là thế nào?”
Ta lập tức cầm bút, viết xuống một bài Quan Đường Thi thơ ngắm hải đường.
Ban đầu, ta chỉ viết một bài từ thưởng hoa bình thường:
Hải đường tựa gấm thêu hồng, sắc xuân rực rỡ nhất trong muôn hoa.
Thế nhưng loại hoa diễm lệ như vậy, lại chẳng có hương thơm.
Ta ngắm hoa hải đường, đời này mang một mối hận.
Chỉ có men say mới có thể xoa dịu phần nào.
Bài thơ ấy, bút lực uyển chuyển, lời văn lộng lẫy, nhưng khi nghiền ngẫm kỹ… lại chỉ là thứ hào hoa rỗng tuếch.
Ta đã từng là thê tử của Tạ Toản suốt hai mươi năm.
Hai mươi năm ấy, không chỉ là hai mươi năm cô đơn chiếc bóng.
Mà còn là hai mươi năm ta đọc hết thi thư, trải đủ bể dâu nhân thế.
Vậy nên, Đào Vi Ngư của hiện tại trong lòng không còn hận.
Chỉ còn lại một nỗi khát khao, một tia hy vọng dịu dàng.
Hoa hải đường thật đẹp, hôm nay trời cũng thật đẹp.
Ta của tương lai, nhất định sẽ càng tốt đẹp hơn nữa.
Bút đi như rồng bay phượng múa, ta viết ra những điều trong lòng một cách thỏa thuê.
Viết xong bài thơ, ta khẽ thở ra một hơi.
Nỗi u sầu trong tim cũng theo đó mà dần dần tan biến.
Ta đưa bài thơ đến trước mặt Thọ Vương phi, cúi đầu cung kính nói:
“Xin nương nương minh giám.”